quy luật điểm rơi trong kinh doanh là gì

Quy luật giá trị, cùng với sự tác động của cung, cầu quyết định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Như vậy nó đã góp phần giúp nền kinh tế phát triển mạnh. Quy Trước tiên, đó là việc điều tra, làm rõ hành vi của cá nhân doanh nhân đó vi phạm pháp luật để truy tố, tòa xử lý người có tội. Ở khía cạnh rộng hơn, việc xử lý tội phạm là doanh nhân nhằm làm trong sạch nội bộ, để doanh nghiệp đó hoạt động đúng quỹ đạo Cấp độ 2: (Vượt quá những gì khách hàng mong đợi) Những đặc điểm dịch vụ phụ thêm có thể giúp bạn vượt qua đối thủ cạnh tranh. Cấp độ 3: (Khách hàng trở nên thích thú) Bạn có thể đem đến sự ngạc nhiên, thú vị nằm ngoài mong đợi của khách hàng. Cấp độ 4 Bạn có thể hiểu đơn giản rằng quy tắc 80/20 là nguyên nhân và kết quả như sau: 80% kết quả (đầu ra) đến từ 20% nguyên nhân (đầu vào). Quy tắc này trong Marketing được dùng để chỉ ra rằng 80% doanh thu của một công ty được tạo ra bởi 20% khách hàng của họ. Nhìn theo Nguyên tắc 80/20 là gì? Nguyên tắc 80/20 hay còn gọi là nguyên tắc Pareto (quy luật thiểu số quan trọng và phân bố nhân tố) nói rằng trong nhiều sự kiện, khoảng 80% kết quả là do 20% nguyên nhân gây ra. Nhà tư tưởng quản trị doanh nghiệp Joseph M. Juran đề xuất quy luật này và đặt theo tên của nhà kinh tế người Ý Le Meilleur Site De Rencontre Totalement Gratuit. Ngành Luật kinh doanh là một trong những ngành học thuộc nhóm ngành luật cung cấp cho sinh viên các kiến thức về luật pháp liên quan tới kinh tế, xã mình tìm hiểu những thông tin về ngành Luật kinh doanh trong bài viết này Giới thiệu chung về ngànhNgành Luật kinh doanh là ngành gì?Ngành Luật kinh doanh Business Law là một ngành học chuyên sâu về luật pháp của kinh doanh và các hoạt động kinh doanh. Ngành học này bao gồm các chủ đề như thỏa thuận kinh doanh, tài sản, tài chính, chất lượng dịch vụ, bảo mật thông tin, quản lý nhân sự và quản lý rủi viên được học các kỹ năng như phân tích và giải quyết vấn đề pháp lý, viết và thực hiện thỏa thuận kinh doanh, và quản lý rủi ro kinh trình ngành Luật kinh doanh trang bị cho người học những kiến thức chuyên ngành về Luật thương mại hàng hóa và dịch vụ, pháp luật về đầu tư, pháp luật kinh doanh bất động sản, luật hình sự phần các tội phạm, luật thuế, luật cạnh tranh, pháp luật về chứng khoán, tư pháp quốc tế, luật tố tụng dân sự, luật sở hữu trí tuệ, luật ngân hàng, luật thương mại quốc tế, xã hội học pháp luật…Luật kinh doanh thường được tuyển sinh dưới dạng chuyên ngành hơn là một ngành học. Vậy có thể học ngành Luật kinh doanh luật thương mại ở trường nào?2. Các trường đào tạo và điểm chuẩn ngành Luật thương mạiCó những trường nào đào tạo ngành Luật kinh doanh?TrangEdu cung cấp danh sách các trường tuyển sinh và đào tạo ngành Luật thương mại cập nhật mới nhất hàng năm trước mùa tuyển sinh để các bạn có thể lựa chọn được một trường phù hợp nhất với bản ý Các trường tuyển sinh chuyên ngành Luật thương mại thuộc ngành học nào mình sẽ ghi chú ngành học đó sau tên trường luôn trường tuyển sinh ngành Luật thương mại năm 2023 và điểm chuẩn mới nhất như sauTTTên trườngĐiểm chuẩn 20221Trường Đại học Luật – ĐHQG Hà Đại học Kinh tế quốc Đại học Kinh tế TP HCM Phân hiệu Vĩnh Long3. Các khối thi ngành Luật kinh doanhThi ngành Luật kinh doanh theo khối nào?Để đăng ký xét tuyển vào một trong các trường phía trên, các bạn có thể sử dụng một trong các tổ hợp xét tuyển sau đây tùy trườngKhối A00 Toán, Lý, HóaKhối A01 Toán, Lý, AnhKhối D01 Văn, Toán, AnhKhối D03 Văn, Toán, tiếng PhápKhối D07 Toán, Hóa, AnhKhối D09 Toán, Lịch sử, Tiếng AnhKhối D90 Toán, KHTN, AnhKhối D91 Toán, Khoa học tự nhiên, Tiếng PhápKhối D96 Toán, KHXH, AnhXem thêm tại Các tổ hợp môn xét tuyển đại học, cao đẳng4. Chương trình đào tạo ngành Luật kinh doanhNgành Luật kinh doanh sẽ được học những môn gì?Theo học ngành Luật kinh doanh của trường Đại học Luật TP HCM, sinh viên sẽ được đào tạo theo chương trình học như sauHỌC KỲ 1Luật Hiến phápLý luận về Nhà nước và pháp luậtGiáo dục thể chất HP1 – Bơi lộiTin học đại cươngTriết học Mác LêninHỌC KỲ 2Giáo dục thể chất HP 2, 3 – Bơi lộiKinh tế chính trị Mác – Lê NinNhững quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kếLuật Hành chínhLuật Quốc tếNhững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin HP2Tâm lý học đại cươngGiáo dục quốc phòng – an ninhHỌC KỲ 3Luật biểnChủ nghĩa Xã hội khoa họcĐại cương văn hóa Việt NamHợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồngLogic họcLịch sử Đảng Cộng sản Việt NamĐường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt NamPháp luật về chủ thể kinh doanhQuản trị họcHỌC KỲ 4Luật Đất đaiLuật Hôn nhân và gia đìnhLuật Hình sự phần chungLuật Lao độngPháp luật thương mại hàng hoá và dịch vụPháp luật về đầu tưPháp luật kinh doanh bất động sảnHỌC KỲ 5Luật Hình sự phần các tội phạmLuật ThuếLuật cạnh tranhKỹ năng nghiên cứu và lập luậnPháp luật về chứng khoánTư pháp quốc tếLuật Tố tụng dân sựHỌC KỲ 6Tư tưởng Hồ Chí MinhLuật Sở hữu trí tuệLuật Ngân hàngLịch sử Nhà nước và pháp luậtLuật Thương mại quốc tếXã hội học pháp luậtMột số vấn đề chuyên sâu về Luật hôn nhân và gia đìnhKỹ năng đàm phán, soạn thảo hợp đồngÁn lệ trong hệ thống pháp luật Việt NamLuật quốc tế về quyền con ngườiLý luận định tộiPháp luật thương mại điện tửHỌC KỲ 7Luật Tố tụng hành chínhLuật Môi trườngLuật học so sánhTội phạm họcLuật Tố tụng hình sựXây dựng văn bản pháp luậtLuật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcÁp dụng pháp luật lao động vào quản lý doanh nghiệpLuật Hiến pháp nước ngoàiLuật Trọng tài thương mại quốc tếKhoa học điều tra hình sựPháp luật về y tế và an toàn thực phẩm5. Cơ hội việc làm sau tốt nghiệpNgành luật kinh doanh có rất nhiều cơ hội việc làm, bao gồmLuật sư tư vấn Tư vấn cho các doanh nghiệp về luật kinh doanh, hợp đồng, quản lý chứng khoán và các vấn đề liên quan đến tài vấn tài chính Tư vấn cho các doanh nghiệp về tài chính, tài sản và các vấn đề liên quan đến tài sản. Luật sư thẩm định Thẩm định các vấn đề liên quan đến luật kinh doanh, hợp đồng và tài đốc kinh doanh Quản lý các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm quản lý tài sản, tài chính và nhân cứu thị trường Nghiên cứu và phân tích thị trường, cạnh tranh và các yếu tố liên quan đến kinh kinh doanh là một ngành rất đa dạng và có nhiều cơ hội việc làm khác nhau, tùy thuộc vào sở thích và trình độ của mỗi lương cho các chuyên gia ngành Luật kinh doanh tại Việt Nam có thể khác nhau tùy thuộc vào kinh nghiệm, chức vụ và nơi làm việc. Mức lương trung bình cho một chuyên gia luật kinh doanh tại Việt Nam khoảng từ 10-20 triệu đồng một Các phẩm chất cần cóĐể học ngành luật kinh doanh, cần có các phẩm chất sau Khả năng tư duy logicLuật kinh doanh là một ngành khoa học và phải sử dụng tư duy logic để giải quyết vấn đề pháp lực tìm kiếm thông tin Cần có khả năng tìm kiếm và sử dụng thông tin pháp lý để giải quyết vấn năng giao tiếp Kỹ năng giao tiếp tốt sẽ giúp bạn giải quyết các vấn đề pháp lý với đối tác, khách hàng, và các đối tượng liên tinh thần tự học cao Luật kinh doanh là một ngành rất rộng và phức tạp, nên cần có tinh thần tự giác trong học tập cao để nắm bắt được kiến tâm với nghề nghiệp Luật kinh doanh là một ngành cần có sự tận tâm trong giải quyết các vấn đề pháp lý cho khách hàng. Những thuật ngữ như luật kinh doanh, luật kinh tế khiến nhiều người khó phân biệt được với nhau. Do đó, để có thể hiểu đúng được nội hàm của những thuật ngữ này thì chúng ta cần tìm hiểu cả về định nghĩa, phạm vi, đặc điểm liên quan. Dịch vụ Luật sư tư vấn pháp luật qua điện thoại Ở Việt Nam, thuật ngữ ” Luật kinh doanh” hay “Pháp luật kinh doanh” được bàn đến vào những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX, trong các đề tài nghiên cứu khoa học và hội thảo khoa học. Theo Lê Hồng Hạnh ” Luật kinh doanh điều chỉnh các quan hệ gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh “. Cũng theo Dương Đăng Huệ, pháp Luật kinh doanh nói một cách nôm na nhất là tổng hợp các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức hoạt động và giải thể doanh nghiệp. Nội dung của kinh doanh gồm bốn bộ phận cơ bản cấu thành là pháp luật về các loại hình doanh nghiệp; pháp luật về hành vi kinh doanh; pháp luật về vỡ nợ, phá sản; pháp luật về cơ quan tài phán trong kinh doanh. Từ những quan niệm trên cho thấy dù quan niệm Luật kinh doanh là ngành luật hay môn học thì nội dung cơ bản của nó cũng chứa đựng hai vấn đề pháp lý cơ bản đó là pháp luật về hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh và pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh. Suy cho cùng, những vấn đề trong nội dung của Luật kinh doanh cơ bản giống như nội dung cơ bản của luật kinh tế, có chăng chỉ khác về cách thức, mức độ can thiệp quản lý bằng pháp luật của các nhà nước đối với hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ lịch sử. Như vậy, luật kinh doanh là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước và trong quá trình kinh doanh của các chủ thể kinh doanh với nhau. – Luật kinh doanh trong tiếng anh là Business law – Định nghĩa Luật kinh doanh trong tiếng anh được hiểu là Business law is a combination of legal regulations promulgated by the State, regulating economic relations arising in the process of economic organization and management of the State and in the business process of business entities. joint together. – Một số từ vựng chuyên ngành khác trong cùng lĩnh vực như Một số từ vựng liên quan đến luật kinh doanh trong tiếng Anh Luật Hiến pháp tiếng Anh là Constitutional Law Luật Thương mại tiếng Anh là Commercial Law hay Law on Commerce Luật Hình sự tiếng Anh là Criminal Law Luật Dân sự tiếng Anh là Civil Law Luật Hành Chính tiếng Anh là Administrative Law Luật Sở hữu trí tuệ tiếng Anh là Intellectual Property Law Luật Đất đai tiếng Anh là Law on Land Luật Thuế tiếng Anh là Tax Law Luật Thương mại quốc tế tiếng A nh là International Trade Law Bộ Luật tiếng Anh là Code of Law Dự thảo luật tiếng Anh là bill hay proposition Thông qua luật tiếng Anh là to pass/to enact a law Ban hành luật tiếng Anh là to pass/to approve a law 2. Luật kinh doanh và luật kinh tế có giống nhau không? Thứ nhất, về khái niệm luật kinh tế – Theo quan điểm trước đây Luật kinh tế là ngành luật riêng biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, luật kinh tế được hiểu là ngành luật trong hệ thống pháp luật việt nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế và trong quá trình kinh doanh giữa các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các tổ chức kinh tế XHCN hoặc giữa các tổ chức này với nhau nhằm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước giao. – Trong hoạt động kinh tế hiện nay, chủ thể kinh doanh không chỉ là các tổ chức kinh tế XHCN mà có nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác cùng tham gia kinh doanh bình đẳng. Các chủ thể kinh doanh được tự do chọn lựa ngành nghề kinh doanh nhằm mục tiêu kiếm lời trong sự quản lý của Nhà nước về kinh tế nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế xã hội theo định hướng của Nhà nước. – Do đó vai trò điều chỉnh của luật kinh tế đối với các hoạt động kinh tế hiện nay có nội dung nhấn mạnh đến các quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh khác nhau trong nền kinh tế thị trường, nên có quan điểm gọi luật kinh tế là luật kinh doanh. – Vì vậy khái niệm luật kinh tế ngày nay là ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau. Thứ hai, về đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế – Về đối tượng điều chỉnh Mỗi ngành luật có đối tượng điều chỉnh riêng, đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế là những quan hệ kinh tế chịu sự tác động của luật, bao gồm các nhóm quan hệ sau đây + Nhóm quan hệ phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về kinh tế với các chủ thể kinh tế Nhóm quan hệ này thể hiện sự quản lý kinh tế của Nhà nước, khi các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình. Các chủ thể trong mối quan hệ này không bình đẳng về mặt pháp lý, các chủ thể bị quản lý phải phục tùng mệnh lệnh, ý chí của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. + Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau Nhóm quan hệ này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chủ thể của nhóm quan hệ này chủ yếu là các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tự nguyên không bị áp đặt. Đây là nhóm quan hệ chủ yếu và phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế. + Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ các đơn vị Các chủ thể kinh doanh khi tham gia kinh doanh hình thành nên các đơn vị kinh doanh với nhiều hình thức khác nhau như các loại hình doanh nghiệp công ty, doanh nghiệp tư nhân…, Trong quá trình hoạt động kinh doanh các cá nhân, tổ chức tham gia góp vốn tạo nên các doanh nghiệp, bản thân các thành viên trong doanh nghiệp có thể mâu thuẩn quyền lợi, nghĩa vụ hoặc mâu thuẩn giữa thành viên với doanh nghiệp dẫn đến tranh chấp cần sự điều chỉnh của luật. – Về phương pháp điều chỉnh Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế là phương pháp mệnh lệnh và phương pháp thỏa thuận bình đẳng. + Phương pháp mệnh lệnh Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể kinh doanh. Trong mối quan hệ này cơ quan nhà nước có quyền đưa ra các quy định buộc các chủ thể kinh doanh phải tuân theo. Cách thức tác động của luật cho thấy vị trí bất bình đẳng giữa bên quản lý và bên bị quản lý, bên bị quản lý buộc phải thực hiện ý chí của cơ quan quản lý đã thể hiện tính chất phục tùng mệnh lệnh. + Phương pháp thỏa thuận bình đẳng Phương pháp thỏa thuận bình đẳng được sử dụng điều chỉnh các nhóm quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh hoặc quan hệ phát sinh trong nội bộ đơn vị kinh doanh. Trong các quan hệ này, luật tác động cho phép các chủ thể khi tham gia vào quá trình kinh doanh có quyền bình đẳng thỏa thuận với đối tác những vấn đề mà các chủ thể quan tâm để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Điều này thể hiện sự tôn trọng quyền tự quyết của các chủ thể kinh doanh trong môi trường kinh doanh. Thứ ba, về chủ thể của luật kinh tế Chủ thể của luật kinh tế là những cá nhân và tổ chức có đủ điều kiện luật định để tham gia vào quan hệ kinh doanh, bao gồm – Cá nhân Là những con người cụ thể. Cá nhân muốn trở thành chủ thể của luật kinh doanh phải hội đủ các điều kiện sau • Có năng lực hành vi dân sự • Không thuộc trường hợp bị hạn chế kinh doanh hay cấm kinh doanh • Đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật – Tổ chức Là tập hợp bao gồm các cá nhân hoặc cá nhân và tổ chức hay các tổ chức liên kết hình thành tổ chức mới nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào tính chất của tổ chức, luật pháp phân chia tổ chức thành hai loại tổ chức có tư cách pháp nhân và tổ chức không có tư cách pháp nhân. – Pháp nhân Là tổ chức có đầy đủ các điều kiện luật định tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách chủ thể quan hệ pháp luật. Để được công nhận là một pháp nhân, theo Bộ luật dân sự, tổ chức phải có đủ các điều kiện sau • Được thành lập hợp pháp • Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ • Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng tài sản đó • Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật độc lập Trong lĩnh vực kinh doanh, pháp nhân tham gia vào các quan hệ kinh doanh được gọi là pháp nhân kinh tế. Khi tham gia vào các quan hệ kinh doanh, hành vi của pháp nhân kinh tế được thực hiện bởi người đại diện hợp pháp của pháp nhân. – Tổ chức không là pháp nhân Là những tổ chức không đáp ứng đủ các điều kiện tại Bộ luật dân sự. Trong lĩnh vực kinh doanh, tổ chức không có tư cách pháp nhân được phép tham gia vào các quan hệ kinh doanh theo quy định pháp luật, thực hiện các hoạt động kinh doanh thông qua người đại diện hợp pháp của tổ chức. – Hộ gia đình kinh doanh Hộ gia đình kinh doanh thực hiện các hoạt động kinh doanh dưới hình thức pháp lý là Hộ kinh doanh cá thể, bao gồm các thành viên trong gia đình góp tài sản, công sức để hoạt động kinh tế chung trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh do pháp luật quy định. Khi thực hiện các hoạt động kinh doanh, Hộ gia đình kinh doanh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của cả Hộ, bao gồm cả tài sản riêng của các thành viên trong hộ gia đình kinh doanh nếu tài sản của Hộ gia đình không giải quyết hết các khoản nợ đối với các chủ nợ. Trong quá trình quản lý xã hội, luật kinh tế là công cụ quản lý kinh tế quan trọng của Nhà nước. Thực hiện chính sách, chủ trương cải cách và chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng, Luật kinh doanh đã ghi nhận và thể chế hóa các chính sách, chủ trương của Đảng thành các quy định pháp luật, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường như mong muốn của Đảng và Nhà nước. Tóm lại, với những trình bày trên đây chúng ta có thể thấy, ở phương diện nào đó, luật kinh tế và luật kinh doanh được sử dụng như những khái niệm cùng loại – đều là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế, thương mại hoặc kinh doanh tại quốc gia nào đó, trong giai đoạn lịch sử nào đó. Tuy nhiên, tùy thuộc vào cách thức và mức độ can thiệp của nhà nước vào hoạt động nói trên mà trong nội dung của chúng cũng có những điểm khác nhau. lượt xem 681 download Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Nội dung Text CÁC QUY LUẬT QUẢN TRỊ KINH DOANH CÁC QUY LUẬT QUẢN TRỊ KINH DOANH 1. Tổng quan về quy luật o Khái niệm o Đặc điểm của các quy luật o Cơ chế sử dụng các quy luật 2. Những quy luật cần chú ý trong kinh doanh o Các quy luật kinh tế o Các quy luật tâm lý Tâm lý khách hàng Kinh doanh cũng giống như mọi hoạt động khác, nó chỉ có thể thực hiện thành công nếu nhận biết được và tuân thủ đúng các yêu cầu của các quy luật khách quan có liên quan đến quá trình kinh doanh. Giống như việc đun nước ở trên mặt đất phải tới 100 độ C thì nước mới sôi, đây là một đòi hỏi khách quan không ngoại trừ ai dù họ là cấp bậc gì trong xã hội. 1- Tổng quan về quy luật Khái niệm Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong những điều kiện nhất định. Chẳng hạn trong kinh tế thị trường tất yếu phải có các quy luật cạnh tranh, cung - cầu, giá trị hoạt động. Hoặc các nước nhiệt đới không thể nào có tuyết nếu không có diễn biến đột xuất của thời tiết - Đặc điểm của các quy luật Quy luật được con người đặt tên, nhưng không phải do con người tạo ra, nó có đặc điểm khách quan của nó Con người không thể tạo ra quy luật nếu điều kiện của quy luật chưa có, và ngược lại khi điều kiện xuất hiện của quy luật vẫn còn thì con người không thể xoá bỏ quy luật. - Các quy luật tồn tại và hoạt động không lệ thuộc vào việc con người có nhận biết được nó hay không, có ưa thích hay là ghét bỏ nó. Chẳng hạn người lao động ở các nước TBCN đã hàng thế kỷ đấu tranh với chủ tư bản vì bị bóc lột quá tàn nhẫn, chính quyền tư bản càng đàn áp thì đấu tranh càng phát triển. Nhưng từ khi nhà tư bản nắm được quy luật "con giun xéo mãi cũng quằn", đã điều chỉnh sự bóc lột dưới mức "ngưỡng" mà người lao động chịu đựng thì họ đã thành công. Vì vậy, hiện tại ở nhiều nước TBCN mức lương hàng tháng từ 600 - 3000 USD cho một lao động kỹ thuật là phổ cập, người lao động cảm thấy "phấn khởi" và "hợp lý" so với nhiều nước mà mức lương chỉ là 20 - 30 USD mỗi tháng mỗi người. - Các quy luật tồn tại đan xen vào nhau tạo thành một hệ thống thống nhất. - Các quy luật có nhiều loại kinh tế, công nghệ, tư nhân, con người, quốc gia, quốc tế luôn chi phối và chế ngự lẫn nhau. - Cơ chế sử dụng các quy luật - Phải nhận biết được quy luật, quá trình nhận biết quy luật gồm hai giai đoạn nhận biết qua các hiện tượng thực tiễn và qua các phân tích bằng khoa học và lý luận. Đây là một quá trình tuỳ thuộc vào trình độ, sự mẫn cảm, nhạy bén của con người. - Tổ chức các điều kiện chủ quan của hệ thống để cho hệ thống xuất hiện các điều kiện khách quan mà nhờ đó quy luật phát sinh tác dụng. Chẳng hạn, để cho các quy luật của thị trường như cạnh tranh, giá trị, cung cầu phát huy tác dụng thì các cơ quan quản lý vĩ mô vật giá, tài chính, ngân hàng phải soát xét lại các chức năng của mình để tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy tác dụng. - Tổ chức thu thập các thông tin sai phạm, ách tắc do việc không tuân thủ các đòi hỏi của các quy luật khách quan gây ra. Ví dụ, quan sát số lượng theo học hoặc chạy chọt nhiều vào một ngành nghề nào đó trong xã hội có thể biết ngành nghề đó đang có vấn đề hoặc nó rất hiệu quả nên được ưa thích, hoặc nó có nhiều sơ hở nên có nhiều khoản thu nhập cao và bất minh nên người ta hướng về đó rất nhiều 2 - Những quy luật cần chú ý trong kinh doanh - Các quy luật kinh tế a. Quy luật cạnh tranh Đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải luôn luôn vươn lên giành giật lấy toàn bộ hoặc một mảng nào đó của thị trường để tồn tại, tăng trưởng và phát triển. Quá trình cạnh tranh thường được sử dụng tổng hợp bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn - Bằng công nghệ, để tạo ra sản phẩm tốt với giá rẻ nhất biểu hiện của quy luật giá trị. - Bằng quan hệ hành chính, quân sự... thông qua các ưu đãi của chính quyền hành chính để lũng đoạn mảng thị trường chiếm lĩnh ví dụ, việc cấm vận kinh tế của các cường quốc kinh tế - Bằng yếu tố bất ngờ đa dạng hoá sản phẩm, tung ra thị trường các sản phẩm mới, lợi dụng các sơ hở của đối phương để tạo các thắng lợi chớp nhoáng - Bằng các thủ đoạn bất minh hàng giả, trốn thuế, đánh lừa khách hàng, bắt chẹt khách hàng. - Bằng các biện pháp liên kết kinh doanh góp nhiều doanh nghiệp nhỏ thành thế lực mạnh. - Bằng yếu tố vốn lớn và kéo dài thời gian để chấp nhận chịu lỗ mặt hàng này, giai đoạn này để kiếm lãi ở mặt hàng khác, giai đoạn khác khi đã tạo ra được lợi thế b. Quy luật tăng lợi nhuận Quy luật tăng lợi nhuận bằng các giải pháp kỹ thuật, quản lý và giá cả. Các giải pháp đổi mới kỹ thuật đã được sử dụng phổ cập trong cạnh tranh. Còn các giải pháp quản lý nhằm loại bỏ sơ hở, yếu kém trong quá trình tổ chức và vận hành doanh nghiệp nhờ đó hạ giá thành sản phẩm tạo ra. Các giải pháp về giá là các giải pháp đa dạng hoá các biểu giá bán bán lẻ, bán buôn, bán buôn trả tiền một lúc, bán buôn trả tiền sau và tăng giá bán trong khuôn khổ được thị trường chấp nhận để thu được tổng mức lợi nhuận cho mỗi chu kỳ sản xuất tháng, quý, năm lớn nhất. Đồ thị Đồ thị chỉ rõ Khi bán sản phẩm với giá P thì số lượng sản P thì số lượng bán chỉ còn QΔphẩm bán được là Q điểm A; khi tăng giá lên P + QΔQ điểm B với Δ- > 0. Tương quan % giữa mức tăng giá và mức giảm số lượng bán cầu được gọi là hệ số co giãn giữa cầu và giá, được tính bằng công thức hay 1 Công thức 1 chỉ rõ, khi tăng giá lên 1% ở mức giá P thì cầu giảm xuống ec/g%. Giải pháp tăng giá chỉ có nghĩa khi ec/g C1 cầu > cung phản ứng về phía người bán trên thị trường là nâng giá từ g1 lên g2 g2 > g1 điểm C, do có lãi lớn, sản xuất được phát triển, mức sản xuất từ C1 lên C2 điểm D, do giá đắt mà số lượng bán lại nhiều hơn nên người mua chững lại, người bán không tiêu thụ được sản phẩm, phải hạ giá xuống mức g3 g3 < g2 - điểm E và thu hẹp mức sản xuất từ C2 về C3 C3 < C2 - điểm F nhờ các giải pháp này, số sản phẩm của phía sản xuất trong chu kỳ thứ 2 được bán hết. Quá trình chi phối giữa cung - cầu - giá cả cứ tiếp tục mãi và đến cuối cùng kết thúc ở điểm I điểm cân bằng kinh tế, là điểm ở đó thị trường có mức cung bằng mức cầu và giá cả hợp lý cho cả hai bên cung càu về sản phẩm được nghiên cứu. e. Quy luật của người mua - Người mua mua một sản phẩm nào đó cho mình, là do sản phẩm đó phù hợp với trí tưởng tượng của họ. Nói một cách khác, người mua là "bà hoàng" do đó, người bán chỉ nên bán cái thị trường cần hơn là cái mà mình có. - Người mua đòi hỏi người bán phải quan tâm tới lợi ích của họ, phải có trách nhiệm với họ cả sau khi bán, tức là trong kinh doanh phải giữ được chữ tín và phải có hoạt động bảo hành sau khi bán. - Người mua mong muốn mua được những sản phẩm có chất lượng với giá hợp lý, tạo dáng đẹp, độ bền sử dụng cao và cách bán thuận tiện, tức là đã kinh doanh thì phải chấp nhận cạnh tranh. - Người mua thường không mua hết sản phẩm của người bán, cho nên trong kinh doanh các hoạt động chiêu thị Promotion là cần thiết f. Quy luật về ý chí tiến thủ của chủ doanh nghiệp nhà nước. Ý chí tiến thủ của chủ doanh nghiệp được diễn biến theo thời gian hành hai loại loại bảo thủ đường cong 1 - đồ thị và loại hãnh tiến đường cong 2 - đồ thị Đồ thị Trong hình vẽ các giai đoạn đầu của đường cong biểu thị ý chí tiến thủ của doanh nghiệp nhà nước1 thể hiện ở quyết tâm cao độ trong quá trình làm giàu và tạo lập uy tín tiếng tăm trên thương trường là trùng nhau. Khi họ mới nhận trọng trách làm thủ trưởng, họ thường có quyết tâm cao độ, có cường độ làm việc lớn để mong đem lại sự thành đạt cho doanh nghiệp, để chứng minh vị trí họ đảm nhiệm là hợp lý, họ xứng đáng nhất trong việc ngồi ở vị trí đó giai đoạn 1 của chu kỳ ý chí tiến thủ. Giai đoạn này thường kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm. Giai đoạn 2 của chu kỳ ý chí tiến thủ, chủ doanh nghiệp vẫn giữ được mức quyết tâm, cộng thêm kinh nghiệm và thành quả đạt được ở giai đoạn 1, họ gặt hái các kết quả khả quan, giai đoạn này thường kéo dài từ 2 - 5 năm. Giai đoạn 3 của chu kỳ ý chí tiến thủ, doanh nghiệp gặt hái kết quả ở mức tối đa họ điều hành doanh nghiệp một cách vững chãi, đầy kinh nghiệm nhưng đã bắt đầu có xu hướng trì trệ, giai đoạn này thường kéo dài từ 3 - 5 năm. Giai đoạn 4 của chu kỳ ý chí tiến thủ được tách thành 2 nhánh của hai đường cong. Nhánh 1 thỏa mãn một mặt do tích lũy cho bản thân đã khá, họ thường hoạt động theo kiểu quán tính, sự nghiệp bắt đầu đi xuống và tiếp tục kinh doanh nữa chỉ gánh lấy thất bại. Nhánh 2 giành cho những người có tham vọng lớn, họ bắt đầu chuyển sang một giai đoạn mới của sự nghiệp kinh doanh, hoặc bắt đầu tham dự các hoạt động nhằm giành giật vị thế xã hội. Nếu nhân cách kém cỏi, họ thường ưa thích cuộc sống hưởng lạc; thích được người khác tâng bốc, tôn thờ cuộc sống hưởng lạc vật chất và dám vi phạm các điều cấm kỵ của luật pháp, của thông lệ xã hộ và thương trường. - Các quy luật tâm lý a. Tâm lý Tâm lý Tâm lý cá nhân là sự phản ánh thế giới khách quan của bản thân, của tự nhiên, của xã hội vào bộ não con người, được con người tích lũy và được biểu hiện thành các hiện tượng tâm lý. b. Vai trò của tâm lý học quản lý kinh tế Tâm lý là một tiềm năng to lớn của quản lý vì nó tạo ra hoặc làm mất đi niềm tin, và môi trường tâm lý tốt đẹp cho con người trong quá trình hoạt động kinh tế, nhờ đó làm cho hiệu quả thu được tăng lên hoặc giảm đi đáng kể từ 5 - 20%. Thực tế chỉ rõ nếu con người làm việc, hoạt động trong môi trường tâm lý tốt lành vui vẻ, phấn khởi thì năng suất công việc tăng lên từ 10 - 20% so với làm việc trong môi trường nặng nề, ức chế. Một thực tế khác cũng chỉ rõ con người trong điều kiện bình thường chỉ có thể sử dụng được từ 20 - 30% tiềm năng sức cơ bắp, trí tuệ vốn có của mình. Chỉ khi gặp hoàn cảnh đột biến lòng quyết tâm, lòng căm thù địch, ý chí chống trả lại cái chết, ý chí rửa hận mới có thể huy động tới 50 - 60% tiềm năng vốn có của mình mà thôi. Trong hoạt động kinh tế cũng vậy. Một hãng sản xuất có uy tín về chất lượng sản phẩm làm ra và cung cách phục vụ khách, thì hiệu quả kinh doanh do niềm tin của khách sẽ tạo ra hơn hẳn so với các hãng cùng ngành hàng khác. c. Một số quy luật tâm lý cơ bản trong kinh doanh * Đặc điểm tâm lý cá nhân, là các đặc điểm về tâm lý để phân biệt người nọ với người kia dựa trên các nhân tố tâm lý cá nhân xu hướng, tính khí, tính cách và năng lực. - Xu hướng của con người là hướng hoạt động, ý định vươn tới của con người trong một thời gian lâu dài; được thể hiện thành mục đích, mục tiêu, thái độ, cách sống của con người mà con người dồn hết tâm trí của mình vào thực hiện để đạt lấy. - Tính khí là thuộc tính tâm lý cá nhân biểu hiện cường độ, tốc độ biên độ của các hoạt động tâm lý trong cách ứng xử của con người, nó mang tính di truyền và chịu tác động bởi cấu tạo của các tế bào thần kinh của con người. Theo cách phân loại của Páp-lốp con người về mặt tính khí được "pha trộn" từ 4 cực của tính khí nóng, linh hoạt, trầm và ưu tư. Đồ thị 4 cực tính khí con người + Tính khí nóng Là tính khí của những người có hệ thần kinh mạnh, cường độ hoạt động lớn, không cân bằng thiên về hưng phấn; đó là những con người nóng nẩy, bộc trực, ít mưu mẹo. + Tính khí linh hoạt Là tính khí của những người có hệ thần kinh trung bình, cân bằng, tốc độ nhanh, linh hoạt. Thường người có tính khí linh hoạt là người mưu trí, quan hệ rộng rãi, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhiều sáng tạo. + Tính khí trầm Là người có hệ thần kinh yếu, cân bằng, tiốc độ chậm không linh hoạt. Trong cuộc sống họ là người nhẹ nhàng, làm việc khoan thai không vội vàng hấp tấp, rất bài bản máy móc và ít sáng kiến. + Tính khí ưu tư Là người có hệ thần kinh rất yếu, rất trì trệ, không linh hoạt. Đó là người rất ít quan hệ, ngại giao tiếp, hay suy nghĩ nội tâm và bệnh hoạn; dễ mất tinh thần trước khó khăn. Trong kinh doanh người có tính khí linh hoạt là người ưu việt, họ rất sáng tạo, quan hệ cực kỳ rộng rãi, lắm mưu mẹo. Người có tính khí nóng chỉ làm tốt các việc có tính "cơ bắp" và khi công việc mới bắt đầu, có nhiều khó khăn. Người có tính khí trầm chỉ nên bố trí các công việc tĩnh tại và đơn giản, mang tính lặp lại một cách đơn điệu. Còn người có tính khí ưu tư là người "chỉ đâu biết đó", họ rất lu mờ trong hệ thống và rất đáng thương hại. - Tính cách là đặc điểm tâm lý cá nhân biểu hiện bằng những hành vi, cách ứng xử, cách nói năng mang tính định hình của con người và nó chi phối lên quá trình sống và hoạt động của con người, nó chịu tác động to lớn của môi trường sống, của quá trình học tập và giao tiếp của con người, của trào lưu xã hội. Chẳng hạn trước hành vi tham nhũng thái độ của con người có thể là lên án hoặc đồng tình hoặc hờ hững. Rõ ràng người phản đối là người có tính cách tốt, còn người đồng tình là kẻ có tính cách xấu xét về mặt nội dung Còn hình thức biểu lộ của sự phản đối có thể có nhiều cách, có cách tốt có văn hóa có cách xấu phi văn hóa Bảng Các loại tính cách và cách thể hiện Loại tính cách Nội dung Hình thức Tốt Tốt Tốt xấu Nham hiểm Xấu Tốt Xấu Xấu Xấu Thất thường Lúc tốt, lúc xấu Lúc xấu, lúc tốt Cơ hội Lúc tốt, lúc xấu Tốt ... ... ... Trong bảng tính cách tốt là tính cách của những người về mặt bản chất, nội dung là tốt, đạo đức, nhân hậu hình thức thể hiện có thể là tốt nhẹ nhàng, khéo léo, lịch sự, có văn hóa; nhưng cũng có thể c ách biểu hiện lại không tốt, thậm chí là xấu như cục cằn, thô bạo, thiếu lịch sự, kém văn hóa Còn tính cách của kẻ nham hiểm về mặt nội dung thì hoàn toàn xấu hại người, ném đá dấu tay, đem tai họa, thiệt thòi cho người khác, bôi nhọ con người nhưng hình thức lại có thể "rất đẹp", "rất tốt" vì họ tạo ra một vỏ bọc để giấu chân tướng của mình. Tính cách của kẻ xấu thì nói chung chúng xấu toàn diện cả nội dung lẫn hình thức. Ta có thể thấy rõ tính cách của bọn này thông qua hình ảnh của một số cán bộ hư hỏng vượt biên tá túc ở hải ngoại đang tìm cách để kiếm sống, còn tính cách của bọn cơ hội thì về cơ bản cũng giống như bọn nham hiểm, nhưng còn có đôi chút lương tâm nên có việc, có người như với người thân, đồng bọn đồng cảnh, đồng thuyền của họ chúng đối xử không phải là tàn tệ tất cả; nhưng về hình thức biểu hiện thì chúng rất khôn ngoan, đẹp đẽ. Thực tế trong quản lý kinh tế, không ít quốc gia đã bị bọn kẻ lừa dối cơ hội gây nhiễu vì tưởng chúng tốt nên đưa chúng vào các vị trí quan trọng trong guồng máy kinh tế của hệ thống; để khi chắc chân, ấm chỗ chúng mới lộ rõ chân tướng. - Năng lực là thuộc tính tâm lý cá nhân, nhờ đó giúp cho con người có thể dễ dàng tiếp thu một lĩnh vực kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nào đó và nếu công tác trong lĩnh vực đó thì họ dễ có kết quả cao hơn với các lĩnh vực khác và người khác. Năng lực có nhiều loại, trong đó phải kể tới năng lực học tập, năng lực thực hành, năng lực tổ chức chỉ huy, năng lực giao tiếp, năng lực sáng tạo, năng lực vượt khó khăn Để sử dụng con người trong quản trị kinh doanh phải nắm chắc năng lực của con người định sử dụng, tránh nhầm lẫn. Quá trình quản trị kinh doanh chính là quá trình tác động lên con người dựa trên các biểu hiện tâm lý của họ, để hướng họ vào việc sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng khác và các cơ hội của quá trình tiến hành các hoạt động kinh tế. Nhà quản trị sẽ không thể thành công nếu không nắm chắc các hiện tượng tâm lý của con người; đúng như người xưa thường nói dụng nhân như dụng mộc. * Tâm lý khách hàng Khách hàng là đối tượng phục vụ, là lẽ sống còn của các doanh nghiệp, việc nghiên cứu tâm lý khách hàng là điều không thể không được chú ý thỏa đáng, có được khách hàng là tồn tại là thành công trong cạnh tranh trên thương trường ngày nay. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là những người đang có nhu cầu và khả năng mua sản phẩm, nhưng chưa được đáp ứng và mong được thỏa mãn. Khách hàng có thể làm một người, một tổ chức, một hệ thống, thậm chí một nước. Để trở thành khác hàng điều kiện quyết định trước nhất là họ phải có nhu cầu về sản phẩm, nếu không có nhu cầu thì khách hàng không cần đến người đáp ứng cho mình. Nói đến nhu cầu nảy sinh của khách hàng cũng tức là việc phải đề cập tới động cơ mua sản phẩm để đáp ứng nhu cầu. Động cơ mua sản phẩm nói ở đây chính là những nhân tố thúc đẩy, định hướng và duy trì hành vi mua sản phẩm của con người. Nó bao gồm các loại động cơ cơ bản sau + Động cơ sinh lý - đó là các động cơ xuất phát từ nhu cầu có tính bẩm sinh của cơ thể con người ăn, ở, mặc, phương tiện đi lại, + Động cơ mang tính tâm lý học đòi, phô trương, cải thiện cuộc sống, dự trữ, thói quen Điều kiện thứ hai, người có nhu cầu chỉ trở thành khách hàng khi họ chưa được đáp ứng nhu cầu của mình. Điều kiện thứ ba, người có nhu cầu phải mong được thỏa mãn nhu cầu đặt ra của mình. Điều kiện thứ tư là người có nhu cầu phải có khả năng để mua sản phẩm đáp ứng cho các nhu cầu của mình. Điều kiện thứ năm, là nhu cầu phải có sản phẩm đáp ứng, tức là phải có những người sản xuất ra sản phẩm. Điều kiện thứ sáu là người có nhu cầu phải xử lý các nhu cầu của mình thông qua việc mua sản phẩm ở trên thị trường. Sơ đồ Người có nhu cầu và khách hàng Thị trường, trong sơ đồ của nền kinh tế thị trường là nơi hai bên, cung người bán và cầu đại diện là khách hàng tự do trao đổi sản phẩm và tiền tệ để thỏa mãn nhu cầu của mỗi phía theo thông lệ và luật định, từ đó xác định nên số lượng và giá cả sản phẩm. - Quá trình diễn biến tâm lý khách hàng được biểu diễn thành nhiều bước sơ đồ Sơ đồ Các bước mua và tiêu dùng sản phẩm của khách hàng + Khởi đầu là sự nảy sinh nhu cầu của khách hàng do bản thân khách hàng tạo ra, hoặc do tác động của người bán sản phẩm thông tin ngược cho khách hàng khiến cho khách hàng nảy sinh nhu cầu. + Từ nhu cầu này, được gọi là nhu cầu tiềm năng, khách hàng bắt đầu tìm hiểu kỹ các thông tin về những loại sản phẩm của các nhà cung cấp trên thị trường, kiểm tra, điều chỉnh bổ sung các hiểu biết cần thiết về sản phẩm nhằm đáp ứng cho nhu cầu của mình. Sau đó hoặc cùng lúc họ tiến hành các trao đổi với những người quen biết trong gia đình, cơ quan, xã hội hoặc những người có thể giúp cho họ các thông tin chính xác về sản phẩm mà những người trao đổi có biết về các loại sản phẩm này, như các cơ quan tư vấn sản phẩm, các chuyên gia có hiểu biết về công nghệ tạo ra sản phẩm Cuối cùng của bước này là khách hàng phải xem lại khả năng tài chính, khả năng thanh toán của mình để hình thành nên chính xác nhu cầu sẽ được giải quyết thường gọi là cầu. + Bước tiếp theo của khách hàng là khi đáp ứng nhu cầu của bản thân là hành vi tiến hành mua sản phẩm về sử dụng. Việc này liên quan đến chỗ mua sản phẩm, tức là liên quan đến phương thức và hình thức bán hàng của bên cung thái độ của nhân viên và cửa hàng, thủ tục mua, phương thức chuyên chở, chế độ hướng dẫn sử dụng sản phẩm, chế độ bảo hành sản phẩm; chế độ cung ứng vật tư nếu có trong sử dụng sản phẩm + Bước tiếp theo là sự hình thành cảm nhận của khách hàng khi sử dụng sản phẩm, bước này thường khách hàng kiểm chứng lại các thông tin về sản phẩm mà bên bán tuyên truyền, giới thiệu, quảng cáo và các hoạt động tiếp thị khác, đồng thời họ cũng sẽ có các hoạt động trao đổi với các nhóm trao đổi để hình thành ra các kết luận và hành vi tiếp theo sau khi sử dụng sản phẩm. Toàn bộ các hoạt động kể trên đều có sự chỉ huy của yếu tố tâm lý con người, vì thế các chủ doanh nghiệp với tư cách là bên cung sản phẩm phải nghiên cứu để chiếm được sự ưu ái, tín nhiệm của khách hàng. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do có sự chi phối của Nhà nước là chủ yếu và một phần không đáng kể của khách nên diễn ra hơi khác.. Trong sơ đồ khách hàng bắt đầu có nhu cầu thậm chí khi không có nhu cầu thực sự, theo kế hoạch, lập dự trù lên các cơ quan nhà nước các bộ phận hữu quan để xin được cung cấp. Tiếp đó, các cơ quan chức năng xử lý việc cung ứng sản phẩm, cân nhắc giữa các chủ thể có nhu cầu trong nước và khả năng của các nhà sản xuất để cân đối và xem các xét chỉ tiêu phân phối để ra quyết định phân phối cuối cùng. Sơ đồ Các bước mua và tiêu dùng sản phẩm của khách hàng Sau bước trên, việc cung ứng sản phẩm được cung cấp cho người sử dụng đem về sử dụng hoặc cất chưa sử dụng. Trong quá trình sử dụng các cảm nhận của người dùng được phản hồi lại cho các nhà sản xuất và các cơ quan phân phối, trong đó việc xử lý các thông tin này chủ yếu do các cơ quan phân phối thực hiện. Giữa hai sơ đồ và điểm khác nhau cơ bản là vai trò của khách hàng và của các bên cung nhất là các bên cung, đặc biệt là sự cạnh tranh của các bên cung ngoài nước không hề thấy xuất hiện. Tất cả các sự khác nhau này là thứ nhất do các chủ thể bên cung không có trách nhiệm trực tiếp với khách hàng bên cầu nên sự cạnh tranh bị loại bỏ, công nghệ và khoa học khó có thể phát triển và đưa vào sử dụng; thứ hai, do không có cạnh tranh nên nhu cầu của bên cầu sẽ bị "bóp méo", bị "xuyên tạc" và không thể phát triển, đồng thời việc xử lý giữa cung và cầu trở thành giản đơn, các tiêu cực trong kinh tế sẽ không nhiều, có chăng chỉ tập trung vào một chỗ là các cơ quan phân phối thông qua một số cán bộ, viên chức hư hỏng, thoái hóa. Ngược lại, ở sơ đồ sơ đồ của nền kinh tế thị trường, thị trường sẽ rất sôi động, công nghệ được tận dung, sự hội nhập khu vực và quốc tế là tất yếu. Tất nhiên, đi kèm theo nó là các tệ nạn kinh tế tham nhũng, tiêu cực sẽ lớn hơn nhiều vì nó chuyển từ hướng chỉ tập trung sự hư hỏng nếu có vào những bộ phận, viên chức của cơ quan phân phối, thành ra sự lan toả trong khắp xã hội, nó len lỏi vào cả các hoạt động của nền kinh tế xã hội. - Tâm lý khách hàng. Tâm lý khách hàng là sự phản ánh vào bộ óc khách hàng quá trình hình thành nhu cầu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng thông qua quá trình mua và tiêu dùng sản phẩm trên thị trường và được thể hiện thành cách xử lý nhu cầu. - Tâm lý khách hàng trong việc lựa chọn xử lý nhu cầu. Nhu cầu của con người là vô cùng, vô tận trong quá trình sống, luôn luôn biến đổi bao gồm rất nhiều loại + Nhu cầu mang tính sinh lý là các nhu cầu xuất hiện từ động cơ sinh lý, nhằm giúp con người duy trì được cuộc sống thể xác của mình một cách hài hoà, hợp lý đồ ăn, đồ uống, cái mặc, chỗ cư trú, thuốc men phục vụ sức khoẻ, phương tiện làm việc + Nhu cầu được sống và làm việc an toàn chóng lại các hiểm hoạ và cái chết; + Nhu cầu có cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc, sung túc; + Nhu cầu về nhà ở từ các mức khác nhau tạm bợ, cố định, tiện nghi, khang trang đẹp đẽ, cao cấp + Nhu cầu về giao tiếp thông tin, nhóm trao đổi, các quan hệ xã hội + Nhu cầu được tiến bộ học hỏi, đề bạt cất nhắc; + Nhu cầu được tôn trọng trong cơ quan, trong xã hội; + Nhu cầu nghỉ ngơi giải trí du lịch, hưởng thụ văn hoá khoa học + Nhu cầu tìm tòi sáng tạo để khẳng định mình; + Nhu cầu được an toàn, không gặp các biến động xấu trong cơ quan, trong xã hội, trong giao tiếp, đem lại các biến đổi xấu cho bản thân, gia đình, đất nước; Nhu cầu về sự biến đổi trong cơ quan, gia đình, xã hội, đất nước mà thông qua đó con người được phát triển thuận lợi hơn, có được nhiều phúc phận hơn; Nhu cầu có quyền lực không phải ai cũng giống nhau để chi phối người khác hoặc hạn chế sự chi phối của người khác + Trong các nhu cầu theo thứ tự kể trên, con người thường xử lý theo tuần tự từ thấp đến cao theo khả năng thanh toán của mình; điều này được thể hiện thông qua các quy luật tâm lý tiêu dùng, trong đó có đường cong Tửrqwist quen thuộc ở các giáo trình marketing. Đồ thị Trong đồ thị có hai đường cong, đường cong 1 biểu thị nhu cầu về các mặt sản phẩm thiết yếu. Dù không có thu nhập con người vẫn phải tiêu thụ sản phẩm ví dụ lương thực, thực phẩm để tồn tại. Đó là đường cong thiết yếu đường cong Tửrqwist 1. Còn dường cong 2 biểu thị nhu cầu về các mặt hàng không thiết yếu tạm gọi là các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu xa xỉ - đường cong Tửrqwist 2. Tất nhiên, với những người có thu nhập bình quân hàng tháng cao thấp khác nhau thì tính chất của các nhu cầu bức thiết và xa xỉ có thể thay đổi theo hướng nâng cao dần lên. Chẳng hạn, với nước nghèo đi du l ịch nước ngoài là một nhu cầu xa xỉ nhưng đối với nước giàu, người lắm tiền thì việc đi du lịch lại trở thành một nhu cầu không mang tính xa xỉ nữa. + Một đặt điểm tâm lý tiêu dùng khác của người tiêu dùng là cùng một loại nhu cầu ví dụ, thực phẩm, nhưng các loại sản phẩm đáp ứng có thể khác nhau và có tính thay thế lẫn nhau ví dụ, các loại thịt khác nhau có thể thay thế cho nhau gà, vịt, lợn, thú rừng Cho nên các nhà kinh doanh phải tính đến yếu tố này mà chọn cách đưa ra giá bán, giá cạnh tranh thích hợp. + Một đặc điểm tâm lý tiêu dùng khác, là việc mua bán sản phẩm trên thị trường cho bản thân, cho gia đình còn lệ thuộc vào cơ cấu của các gia đình. Rõ ràng số lượng người trong một gia đình nhiều hay ít, trong gia đình có trẻ con, người già thì việc tiêu dùng sản phẩm cũng khác nhau. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có các số liệu chính xác về cơ cấu các gia đình của khu vực địa lý mà doanh nghiệp định chiếm lĩnh. + Một đặc điểm tâm lý tiêu dùng khác sẽ góp phần chi phối việc lựa chọn nhu cầu để xử lý của mỗi khách hàng là đặc điểm của bản thân mỗi người tiêu dùng tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, tôn giáo, dân tộc, thói quen chi tiêu Người lao động trí óc có những nhu cầu tiêu dùng khác người lao động chân tay, những kẻ tham nhũng, buôn lậu cách chi tiêu cũng khác những người làm ăn lương thiện. Đặc điểm này đòi hỏi nhà kinh doanh phải có các chuyên gia marketing đi điều tra nắm bắt chính xác các thông tin về khách hàng của mình. + Một đặc điểm tâm lý tiêu dùng khác chi phối việc lựa chọn nhu cầu để xử lý của khách hàng là lượng thông tin ban đầu về các sản phẩm có thể đáp ứng cho nhu cầu của khách đến mức độ nào, đó là kết quả của các hoạt động chiêu thị Promotion của các doanh nghiệp và của các nhóm bạn bè trao đổi Từ các đặc điểm tâm lý cơ bản nói trên được hệ thống lại trong sơ đồ các nhu cầu của khách hàng được sắp xếp lại theo một trật tự ưu tiên từ cao nhu cầu bức thiết đến thấp nhu cầu mang tính xa xỉ. Sơ đồ Các nhân tố tác động đến việc lựa chọn xử lý nhu cầu của khách - Đối với sản phẩm đã qua sử dụng, khách hàng nếu đã tín nhiệm thì thường có xu hướng quay trở lại nơi đã bán sản phẩm lần trước khi phải mua các lần tiếp theo. + Việc chọn nơi mua cũng lệ thuộc vào cung cách phục vụ khách của đội ngũ hân viên bán hàng cởi mở nhưng không thái quá, nhã nhặn nhưng không quỵ luỵ, chân tình nhưng không làm cho khách nghi ngờ thì sẽ dễ thu hút được khách. Để đáp ứng được các yêu cầu tâm lý nói trên của khách nhằm thu hút được khách, giữ khách ở mãi với mình, thông qua khách cũ mở rộng ra số khách mới thì các cửa hàng phải làm tốt các việc như + Phải có địa điểm bán hàng thuận tiện, có trang thiết bị hợp lý, có đội ngũ nhân viên bán hàng giỏi nghề, + Phải tạo lập chữ tín và duy trì phát triển nó, và phải coi chữ tín trong buôn bán như một thứ tài sản như nhiều nhà kinh tế tính toán nó bằng 25 - 30% giá trị tài sản vật chất của doanh nghiệp, + Phải tiến hành các hoạt động chiêu thị có hiệu quả theo các nguyên tắc khoa học a Gợi mở, lôi cuốn, b Trung thực, c Có văn hoá, d Đủ liều lượng và không thái quá + Sau khi mua sản phẩm, đối với các sản phẩm có giá trị lớn các sản phẩm mang tính vật dụng nhỏ không đáng kể thì không có vấn đề gì phức tạp, khách hàng thường đòi hỏi sản phẩm được mua phải được đưa đến nơi sử dụng một cách an toàn và được hướng dẫn chi tiết cách sử dụng, bảo quản và bảo hành. Đối với các sản phẩm cần đến phụ tùng hoặc vật tư bổ sung thường kỳ phải được cung cấp thuận tiện, chi phí cố định như nạp ga bếp ga, bảo hành thiết bị Internet, bảo hành nhà máy Để đáp ứng các nhu cầu, đòi hỏi tâm lý này người bán phải có trách nhiệm bảo hành sản phẩm đến cùng và tránh vi phạm các cam kết đã hứa hẹn, tránh gây thiệt hại cho khách hàng. Đặc biệt tránh việc cung cấp cho khách hàng các sản phẩm đã lạc hậu về công nghệ mà các nhà cung cấp khác đã loại bỏ khỏi guồng máy tiêu thụ mang tính lừa gạt khách hàng. Đây chính là thời điểm để cho doanh nghiệp tạo lập chữ tín về sản phẩm và chất lượng phục vụ khách hàng của doanh nghiệp. Trong giai đoạn khách hàng dùng sản phẩm có thể xảy ra nhiều bất trắc cho k hách hàng như do phạm lỗi lầm khi sử dụng tất yếu khách mong người cung ứng sản phẩm sửa chữa cho họ; do có đổi mới nhu cầu muốn nâng cấp sản phẩm; do nảy sinh một số nhu cầu đặc thù về sản phẩm nói chung. Vì vậy, các doanh nghiệp; các nhà cung ứng sản phẩm cần xử lý thoả đáng cho khách hàng. + Sau khi dùng xong sản phẩm Đến đây chu kỳ vận hành và một sản phẩm kết thúc, khách hàng chuyển sang một chu kỳ sử dụng sản phẩm mới thay thế. Một tâm lý phổ biến là khách hàng thích quay trở lại chỗ mua sản phẩm tính cố hữu, tính quán tính của hành vi tiêu dùng mà họ đã tín nhiệm; họ dễ mua các sản phẩm cho các nhu cầu khác của mình cũng tại cửa hàng này; họ cũng sẵn sàng mua các sản phẩm theo thói quen mang tính phong trào đua đòi, hợm hĩnh khác để sử dụng cũng tại các sản phẩm đã được tín nhiệm. Cho nên chữ tín trong kinh doanh là cực kỳ quan trọng và việc tạo ra các cửa hàng cung cấp đa sản phẩm có uy tín là hết sức cần trong điều kiện nền kinh tế thị trường. - Tâm lý cạnh tranh trong kinh doanh. + Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước các kết quả hoạt động kinh doanh của mình, do đó vấn đề cạnh tranh tất yếu xảy ra giữa các doanh nghiệp có cùng loại mặt hàng phục vụ cho cùng loại nhu cầu của khách. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh là những giải pháp, những thủ đoạn kinh doanh của các chủ thể tham gia cạnh tranh đưa vào nhằm khống chế các chủ thể khác để giành lấy lợi ích cao nhất cho mình trong khả năng có thể. Như vậy, để có hiện tượng cạnh tranh trong kinh doanh phải có các điều kiện sau sơ đồ + Phải có một lợi ích M nào đó nảy sinh trên thị trường. + Phải có ít nhất từ hai chủ thể trở lên cùng muốn chiếm đoạt lợi ích nói trên, cùng thông qua các hoạt động kinh doanh của mình; chủ thể bên này được hoặc được nhiều thì các chủ thể bên kia bị mất hoặc được ít. Sơ đồ Các yếu tố tạo nên cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh Như vậy, nói theo ngôn ngữ lý thuyết trò chơi thì đây chính là trường hợp trò chơi 2 hoặc nhiều người có tổng bằng không xem thêm lý thuyết trò chơi trong kinh tế. Trong cạnh tranh, các chủ thể cạnh tranh đều mong muốn mình phải chiến thắng chiếm ưu thế, hoặc nếu tốt hơn nữa là độc quyền. Sự cạnh tranh có thể diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau - Cạnh tranh đối kháng Là cạnh tranh mà sản phẩm để đáp ứng cho khách hàng và qua đó sẽ thu được lợi ích là duy nhất chúng giống nhau giữa các doanh nghiệp - chủ thể cạnh tranh, và rất khó chuyển đổi sang sản phẩm khác. Cạnh tranh đối kháng lại có thể diễn ra ở hai tình thế, tình thế thứ nhất, buộc phải loại bỏ các chủ thể khác nếu thắng hoặc bị tiêu diệt nếu thua, tình thế thứ hai, không thể loại bỏ được nhau mà phải phân chia khu vực ảnh hưởng. - Cạnh tranh không đối kháng Là cạnh tranh trong các trường hợp còn lại. Có nghĩa là hoặc các doanh nghiệp dễ dàng rút khỏi cạnh tranh để chuyển sang sản xuất, cung ứng mặt hàng khác; hoặc thị trường quá rộng lớn, nhu cầu thị trường rất cao mà khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp chưa đủ để thoả mãn. Tuỳ theo tính chất, mức độ của cạnh tranh cũng như tính cách, thủ đoạn của các cá nhân đứng đầu các doanh nghiệp các chủ thể cạnh tranh, việc cạnh tranh có thể sử dụng đến hàng loạt các giải pháp 240 tài liệu 1435 lượt tải 16-07-2020 1113 Lượt xem Một trong các phương thức mà doanh nghiệp hiện nay mở rộng phạm vi kinh doanh cũng như mô hình kinh doanh là thành lập chi nhánh hoặc địa điểm kinh doanh. Trong bài viết này Luật Long Việt sẽ chỉ ra sự khác nhau để Quý độc giả có thể lựa chọn loại hình phù hợp với nhu cầu Khái niệm Căn cứ theo khoản 1 điều 45 Luật Doanh nghiệp 2014 “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp, kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền” Căn cứ theo khoản 3 điều 45 Luật Doanh nghiệp 2014 “Địa điểm kinh doanh là nơi mà doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh” . Địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp có thể nằm ngoài địa chỉ đăng ký trụ sở chính. Nội dung Chi nhánh Địa điểm kinh doanh Hoạt động kinh doanh Được đăng ký kinh doanh tất cả các ngành nghề công ty đăng ký. Được đăng ký một số ngành nghề công ty đăng ký. Con dấu, giấy phép hoạt động Có con dấu riêng; Có giấy chứng nhận hoạt động riêng. Không có dấu riêng; Có Giấy chứng nhận hoạt động riêng. Về đặt tên Tên Chi nhánh phải mang tên doanh nghiệp kèm theo cụm từ “Chi nhánh” đối với chi nhánh, cụm từ “Văn phòng đại diện” đối với văn phòng đại diện Không bắt buộc phải để tên doanh nghiệp khi đặt tên cho địa điểm kinh doanh Ký kết hợp đồng Xuất hóa đơn Được phép ký hợp đồng kinh tế; Được phép sử dụng và xuất hóa đơn. Không được đứng tên trên hợp đồng kinh tế; Không được đăng ký, sử dụng hóa đơn. Mã số thuế Có mã số thuế riêng 13 số. Chi nhánh kê khai thuế theo mã số thuế chính là mã số chi nhánh ghi nhận tại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Không có mã số thuế riêng. Đối với địa điểm kinh doanh cùng tỉnh thành phố nơi Công ty đặt trụ sở chính sẽ kê khai và nộp thuế cho địa điểm kinh doanh. Đối với địa điểm kinh doanh khác tỉnh thành phố nơi Công ty đặt trụ sở chính, Địa điểm phải đăng ký mã số thuế phụ thuộc tại Cục thuế nơi địa điểm kinh doanh đặt trụ sở và kê khai theo mã số thuế phụ thuộc. Hạch toán thuế Chi nhánh được lựa chọn hình thức Hạch toán độc lập hoặc Phụ thuộc. Hạch toán phụ thuộc vào công ty, hình thức kê khai thuế tập chung. Các loại thuế phải nộp Thuế môn bài Thuế Giá trị gia tăng Thuế Thu nhập doanh nghiệp Thuế thu nhập cá nhân Thuế môn bài Thủ tục thành lập, thay đổi đăng ký kinh doanh. Hồ sơ thành lập phức tạp hơn địa điểm kinh doanh. Thay đổi địa chỉ khác quận phải làm thủ tục xác nhận thuế trước khi thay đổi địa chỉ trên Giấy chứng nhận. Hồ sơ thành lâp đơn giản; Khi thay đổi địa chỉ không phải làm thủ tục xác nhận thuế. Nếu nhu cầu của Công ty muốn mở một cơ sở kinh doanh nhiều lĩnh vực, có thể ký hợp đồng, xuất hoá đơn cho khách hàng, cơ sở hoạt động ở các tỉnh, thành phố khác với tỉnh, thành phố nơi trụ sở chính của Công ty thì nên chọn thành lập chi nhánh; Nếu như cầu của Công ty muốn mở kinh doanh chuyên biệt về một lĩnh vực, muốn lựa chọn thủ tục và hoạt động đơn giản, cơ sở hoạt động trong cùng tỉnh thành phố nơi có trụ sở chính của Công ty thì nên chọn địa điểm kinh doanh. HÃY LIÊN HỆ CHÚNG TÔI ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN CỤ THỂ Văn phòng 1 Tầng 1, 2 phòng cộng đồng tòa nhà B10A Nam Trung Yên, Cầu Giấy, Hà Nội. Email luatlongviet Văn Phòng 2 Số 3 An Trạch, Đống Đa, Hà Nội. Email luatlongviet2 Điện thoại 0914 377 437 *** 0914 347 724 *** 0913 984 083 *** Website *** Tư vấn viên Đào Hoàng Anh Kỹ thuật chọn điểm rơi trong chứng minh bất đẳng thức Cauchy, phuong phap chon diem roi trong bdt Bài viết này sẽ giới thiệu chuyên đề "Kỹ thuật chọn điểm rơi trong chứng minh bất đẳng thức" của thầy giáo Phạm Bình Nguyên – GV trường THPT Kon Tum. Tác giả gửi đăng trên Chọn điểm rơi nghĩa là dự đoán dấu đẳng thức xảy ra khi nào để ta có những đánh giá từ đó đưa ra phương pháp hợp lí. Trong quá trình chứng minh bất đẳng thức, kĩ thuật chọn “điểm rơi” là kĩ thuật rất quan trọng. Với lưu ý rằng trong bất kì phép chứng minh bất đẳng thức nào, nếu không “bảo toàn” được dấu đẳng thức thì phép chứng minh của bạn bị phủ nhận hoàn toàn. Một ví dụ đơn giản về việc "chọn điểm rơi" trong bất đẳng thức Kĩ thuật chọn “điểm rơi” là một kĩ thuật cực kì sơ đẳng đối với những bạn đã “siêu” về bất đẳng thức, nhưng nó lại là một kĩ thuật cơ bản nhất đối với những bạn mới bắt đầu tiếp cận với bất đẳng thức. Nên hy vọng tài liệu này vẫn có ích với những ai cần nó. Bạn đọc tải file PDF ki thuat chon diem roi trong bat dang thuc Cauchy Cosi ở đây Download

quy luật điểm rơi trong kinh doanh là gì